SABCS: 22% người mang mầm bệnh BRCA trẻ tuổi thụ thai sau ung thư vú

Được đánh giá về mặt y tế bởi Drugs.com.

Bởi Elana Gotkine HealthDay Phóng viên

THỨ SÁU, tháng 12 Theo một nghiên cứu được công bố trực tuyến ngày 7 tháng 12 trên Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ trùng với Hội nghị Ung thư Vú San Antonio hàng năm, 22% số người trẻ tuổi mang BRCA thụ thai trong vòng 10 năm sau khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú. Hội thảo chuyên đề được tổ chức từ ngày 5 đến ngày 9 tháng 12 tại San Antonio.

Matteo Lambertini, MD, từ Đại học Genova ở Ý, và các đồng nghiệp đã kiểm tra tỷ lệ mang thai tích lũy và tỷ lệ sống sót không mắc bệnh ở những người trẻ tuổi mang BRCA trong một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện tại 78 trung tâm trên toàn thế giới. Tổng cộng có 4.732 người mang gen BRCA1/2 được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú xâm lấn ở độ tuổi 40 trở xuống trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 12 năm 2020.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng 659 người tham gia đã có ít nhất một lần mang thai sau khi mang thai vú ung thư và 4.073 người thì không. Sau 10 năm, tỷ lệ mắc tích lũy là 22%, với thời gian trung bình là 3,5 năm từ khi chẩn đoán ung thư vú đến khi thụ thai. Trong số những bệnh nhân đang mang thai, lần lượt có 6,9 và 9,7% bị phá thai hoặc sảy thai. Năm trăm mười bảy bệnh nhân đã mang thai trọn vẹn: 91,0% sinh đủ tháng và 10,4% sinh đôi. Nhìn chung, 0,9% trong số 470 trẻ sơ sinh được sinh ra với thông tin đã biết về các biến chứng thai kỳ đã được ghi nhận là có dị tật bẩm sinh. Đối với những bệnh nhân có và không có thai sau ung thư vú, không có sự khác biệt đáng kể nào được ghi nhận về tỷ lệ sống sót không mắc bệnh trong thời gian theo dõi trung bình là 7,8 năm. Các tác giả viết: "Kết quả của chúng tôi có thể cung cấp thông tin tư vấn cho những người trẻ mang gen BRCA quan tâm đến việc thụ thai sau chẩn đoán ung thư vú".

p>

Một số tác giả tiết lộ mối quan hệ với ngành dược phẩm.

Abstract/ Toàn văn

Thông tin thêm

Tuyên bố từ chối trách nhiệm: Dữ liệu thống kê trong các bài báo y tế cung cấp các xu hướng chung và không liên quan đến cá nhân. Các yếu tố cá nhân có thể khác nhau rất nhiều. Luôn tìm kiếm lời khuyên y tế cá nhân cho các quyết định chăm sóc sức khỏe cá nhân.

Nguồn: HealthDay

Đọc thêm

Tuyên bố từ chối trách nhiệm

Chúng tôi đã nỗ lực hết sức để đảm bảo rằng thông tin do Drugslib.com cung cấp là chính xác, cập nhật -ngày và đầy đủ, nhưng không có đảm bảo nào được thực hiện cho hiệu ứng đó. Thông tin thuốc trong tài liệu này có thể nhạy cảm về thời gian. Thông tin về Drugslib.com đã được biên soạn để các bác sĩ chăm sóc sức khỏe và người tiêu dùng ở Hoa Kỳ sử dụng và do đó Drugslib.com không đảm bảo rằng việc sử dụng bên ngoài Hoa Kỳ là phù hợp, trừ khi có quy định cụ thể khác. Thông tin thuốc của Drugslib.com không xác nhận thuốc, chẩn đoán bệnh nhân hoặc đề xuất liệu pháp. Thông tin thuốc của Drugslib.com là nguồn thông tin được thiết kế để hỗ trợ các bác sĩ chăm sóc sức khỏe được cấp phép trong việc chăm sóc bệnh nhân của họ và/hoặc phục vụ người tiêu dùng xem dịch vụ này như một sự bổ sung chứ không phải thay thế cho chuyên môn, kỹ năng, kiến ​​thức và đánh giá về chăm sóc sức khỏe các học viên.

Việc không có cảnh báo đối với một loại thuốc hoặc sự kết hợp thuốc nhất định không được hiểu là chỉ ra rằng loại thuốc hoặc sự kết hợp thuốc đó là an toàn, hiệu quả hoặc phù hợp với bất kỳ bệnh nhân nào. Drugslib.com không chịu bất kỳ trách nhiệm nào đối với bất kỳ khía cạnh nào của việc chăm sóc sức khỏe được quản lý với sự hỗ trợ của thông tin Drugslib.com cung cấp. Thông tin trong tài liệu này không nhằm mục đích bao gồm tất cả các công dụng, hướng dẫn, biện pháp phòng ngừa, cảnh báo, tương tác thuốc, phản ứng dị ứng hoặc tác dụng phụ có thể có. Nếu bạn có thắc mắc về loại thuốc bạn đang dùng, hãy hỏi bác sĩ, y tá hoặc dược sĩ.

Từ khóa phổ biến