Nghiên cứu xác nhận tính hiệu quả của các loại thuốc điều trị viêm khớp mới hơn

Được Carmen Pope, BPharm xem xét về mặt y tế. Cập nhật lần cuối vào ngày 1 tháng 11 năm 2023.

Bởi phóng viên Amy Norton HealthDay

THỨ TƯ, ngày 1 tháng 11 năm 2023 -- Theo một nghiên cứu mới, các loại thuốc uống mới điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp (RA) có tác dụng khá tốt trong "thế giới thực", mặc dù có một số nghi ngờ về khả năng này, theo một nghiên cứu mới.

Nghiên cứu trên 622 người trưởng thành mắc bệnh viêm khớp dạng thấp cho thấy hầu hết đều có tác dụng tốt với các loại thuốc gọi là thuốc ức chế JAK, một nhóm thuốc tương đối mới điều trị tình trạng viêm khớp. Chúng được dùng bằng đường uống, không giống như nhiều loại thuốc RA khác, được dùng bằng đường tiêm hoặc truyền.

Ba chất ức chế JAK -- tofacitinib (Xeljanz), baricitinib (Olumiant) và upadacitinib (Rinvoq) -- đã được phê duyệt ở Hoa Kỳ. Chúng đặc biệt dành cho những người bị RA không thấy thuyên giảm hoặc không thể dung nạp các loại thuốc RA cũ hơn.

Tuy nhiên, mặc dù thuốc ức chế JAK đã được chứng minh là có hiệu quả trong các thử nghiệm lâm sàng, nhưng vẫn có những câu hỏi đặt ra là liệu điều đó có áp dụng được vào thực tế hay không -- nơi chúng thường được dùng cho những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp ngoan cố chống lại phương pháp điều trị tiêu chuẩn.

Những phát hiện mới -- được công bố ngày 1 tháng 11 trên tạp chí Thấp khớp -- có thể làm giảm bớt những lo ngại.

Các nhà nghiên cứu ở Nhật Bản phát hiện ra rằng bệnh nhân sử dụng bất kỳ loại thuốc ức chế JAK nào được phê duyệt ở đó thường có kết quả tốt.

Nhìn chung, khoảng một phần ba số bệnh nhân RA của họ thuyên giảm trong vòng sáu tháng và hơn 80% đã đạt được mục tiêu là "bệnh hoạt động thấp", trong đó các triệu chứng phần lớn được kiểm soát.

Theo một bác sĩ thấp khớp người Mỹ không tham gia vào nghiên cứu, bài học rất đơn giản.

"Nghiên cứu này xác nhận tính hiệu quả của liệu pháp ức chế JAK," Dr. Stanley Cohen, thuộc Hiệp hội Thấp khớp ở Dallas.

Nó cũng cho thấy các loại thuốc JAK khác nhau có khả năng tác dụng như nhau, Cohen nói. Ông lưu ý rằng không có thử nghiệm nào so sánh trực tiếp giữa các loại thuốc, nhưng các nghiên cứu riêng lẻ về từng loại thuốc cho thấy chúng có hiệu quả tương tự nhau.

Và "những trải nghiệm thực tế", bao gồm cả nghiên cứu mới, đã xác nhận điều đó, Cohen nói.

RA là do hệ thống miễn dịch tấn công nhầm vào mô khớp của cơ thể, dẫn đến đau, sưng và cứng khớp. Theo thời gian, tình trạng viêm toàn thân đó có thể gây ra các vấn đề ở các khu vực khác của cơ thể, bao gồm tim, phổi, da và mắt.

Nhiều loại thuốc trị viêm khớp dạng thấp có thể làm chậm quá trình tổn thương khớp bằng cách nhắm vào các phần của phản ứng miễn dịch. Thuốc ức chế JAK nằm trong số đó.

Tuy nhiên, Cohen cho biết, chúng không được coi là mục tiêu ban đầu của RA.

Ông chỉ ra một cuộc thử nghiệm năm 2021 làm dấy lên lo ngại về tính an toàn của thuốc ức chế JAK đối với một số bệnh nhân lớn tuổi.

Nghiên cứu đó bao gồm những bệnh nhân RA từ 50 tuổi trở lên có ít nhất một yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim hoặc đột quỵ, chẳng hạn như huyết áp cao hoặc tiểu đường. Người ta phát hiện ra rằng những người dùng thuốc ức chế JAK tofacitinib có nguy cơ đau tim, đột quỵ và một số bệnh ung thư cao hơn so với những bệnh nhân dùng thuốc ức chế TNF.

Thuốc ức chế TNF là các loại thuốc RA cũ hơn, được tiêm hoặc tiêm truyền, bao gồm etanercept (Enbrel) và adalimumab (Humira).

Dựa trên những phát hiện đó, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã thêm cảnh báo đóng hộp cho tất cả các chất ức chế JAK được sử dụng cho RA. Cơ quan này cũng khuyến cáo các bác sĩ chỉ kê đơn thuốc ức chế JAK sau khi bệnh nhân đã thử ít nhất một thuốc ức chế TNF.

Đối với nghiên cứu mới, các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi Dr. Shinya Hayashi của Đại học Kobe ở Nhật Bản đã phân tích hồ sơ bệnh án của 622 bệnh nhân RA được điều trị tại bảy trung tâm y tế. Tất cả đều nhận được bất kỳ chất ức chế JAK nào được phê duyệt tại Nhật Bản.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng hầu hết bệnh nhân -- khoảng 90% -- vẫn dùng thuốc sau sáu tháng kể từ khi bắt đầu. Và hầu hết đều giảm triệu chứng hoặc thậm chí thuyên giảm.

Tuy nhiên, đó chưa phải là kết thúc của câu chuyện. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng sáu tháng là một thời gian theo dõi ngắn và không rõ chất ức chế JAK có hiệu quả lâu dài như thế nào.

Bên cạnh tính hiệu quả, những người bị RA cũng phải cân nhắc đến tính an toàn của phương pháp điều trị.

Cohen lưu ý rằng mặc dù chất ức chế JAK có liên quan đến một số rủi ro gia tăng so với chất ức chế TNF, nhưng rủi ro tổng thể vẫn có vẻ "khá thấp".

Trong thử nghiệm đưa ra cảnh báo của FDA, 3,4% bệnh nhân dùng tofacitinib bị đau tim hoặc đột quỵ trong 4 năm, so với 2,5% người dùng thuốc ức chế TNF.

Cohen cho biết về tổng thể, rủi ro của thuốc ức chế JAK có vẻ tương tự như rủi ro của thuốc ức chế TNF và các loại thuốc "sinh học" khác nhắm vào hoạt động miễn dịch cơ bản thúc đẩy RA.

Vì chúng ức chế một phần phản ứng miễn dịch nên tất cả những loại thuốc đó có thể khiến con người dễ mắc một số bệnh nhiễm trùng hơn.

Cohen cho biết các chất ức chế JAK dường như có nguy cơ mắc bệnh zona cao hơn, nguyên nhân là do sự tái hoạt động của vi-rút thủy đậu (vi-rút này sau khi một người bị nhiễm bệnh sẽ không hoạt động trong cơ thể).

Nhưng điều đó, Cohen lưu ý, có thể được giải quyết bằng việc tiêm phòng bệnh zona.

Nghiên cứu này không nhận được tài trợ từ bên ngoài. Một số nhà đồng nghiên cứu của Hayashi đã nhận được tài trợ từ các công ty dược phẩm sản xuất thuốc ức chế JAK.

Nguồn

  • Stanley Cohen, MD, bác sĩ thấp khớp, Hiệp hội Thấp khớp, Dallas
  • Thấp khớp, ngày 1 tháng 11 năm 2023, trực tuyến
  • Nguồn: HealthDay

    Đọc thêm

    Tuyên bố từ chối trách nhiệm

    Chúng tôi đã nỗ lực hết sức để đảm bảo rằng thông tin do Drugslib.com cung cấp là chính xác, cập nhật -ngày và đầy đủ, nhưng không có đảm bảo nào được thực hiện cho hiệu ứng đó. Thông tin thuốc trong tài liệu này có thể nhạy cảm về thời gian. Thông tin về Drugslib.com đã được biên soạn để các bác sĩ chăm sóc sức khỏe và người tiêu dùng ở Hoa Kỳ sử dụng và do đó Drugslib.com không đảm bảo rằng việc sử dụng bên ngoài Hoa Kỳ là phù hợp, trừ khi có quy định cụ thể khác. Thông tin thuốc của Drugslib.com không xác nhận thuốc, chẩn đoán bệnh nhân hoặc đề xuất liệu pháp. Thông tin thuốc của Drugslib.com là nguồn thông tin được thiết kế để hỗ trợ các bác sĩ chăm sóc sức khỏe được cấp phép trong việc chăm sóc bệnh nhân của họ và/hoặc phục vụ người tiêu dùng xem dịch vụ này như một sự bổ sung chứ không phải thay thế cho chuyên môn, kỹ năng, kiến ​​thức và đánh giá về chăm sóc sức khỏe các học viên.

    Việc không có cảnh báo đối với một loại thuốc hoặc sự kết hợp thuốc nhất định không được hiểu là chỉ ra rằng loại thuốc hoặc sự kết hợp thuốc đó là an toàn, hiệu quả hoặc phù hợp với bất kỳ bệnh nhân nào. Drugslib.com không chịu bất kỳ trách nhiệm nào đối với bất kỳ khía cạnh nào của việc chăm sóc sức khỏe được quản lý với sự hỗ trợ của thông tin Drugslib.com cung cấp. Thông tin trong tài liệu này không nhằm mục đích bao gồm tất cả các công dụng, hướng dẫn, biện pháp phòng ngừa, cảnh báo, tương tác thuốc, phản ứng dị ứng hoặc tác dụng phụ có thể có. Nếu bạn có thắc mắc về loại thuốc bạn đang dùng, hãy hỏi bác sĩ, y tá hoặc dược sĩ.

    Từ khóa phổ biến